trong việc đúc đồng
Điện Trở Đúc Nhôm - Đúc Đồng Về chúng tôi Điện trở Rồng Việt là đơn vị uy tín với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất điện trở đốt nóng. Chúng tôi rất tự hào vì đã mang sản phẩm điện trở đốt nóng mang thương hiệu ROVICO đến với khách hàng trong và ngoài nước và được đánh giá là sản phẩm chất lượng, an toàn.
Trong việc đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể nào của đồng I. Sự nóng chảy. Ban đầu khi chưa thắp sáng, cây nến ở thể rắn. Khi thắp nến, phần ở đầu nến tiếp xúc với ngọn lửa nóng II. Sự đông đặc. Sự đông đặc là sự chuyển từ thể lỏng sang thể rắn. Nhiệt độ này gọi là nhiệt độ nóng chảy.
Là doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối vật tư cơ khí, chúng tôi luôn nỗ lực mang đến cho khách hàng nhiều lợi ích nhất có thể. Vì vậy, chúng tôi luôn đặt mình vào vị trí khách hàng để xây dựng nên các dịch vụ và hàng hóa tốt nhất, đa dạng nhất dựa trên phương
Cho đoạn văn sau: Nửa tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang. Bình thản, mệt lả và cáu kỉnh, chị không nhìn tôi: "nghìn khối", rồi ngồi xuống, uống nước trong bi đông. Nước nhỏ từ cằm xuống áo, liên tiếp như những giọt mưa. Tôi quay điện về đơn vị. Đại đội trưởng bảo: - Thế à, cảm ơn các bạn!
CÔNG TY TNHH THÉP KHUÔN MẪU VIỆT NHẬT CÔNG TY TNHH THÉP KHUÔN MẪU VIỆT NHẬT. Hotline: 0901.997.998. E13, KP 5, P.Tân Hiệp, TP Biên Hoà, T. Đồng Nai đồng các loại. Chúng tôi cung cấp các sản phẩm từ các hãng nổi tiếng và uy tín hàng đầu trên thế giới: JAPAN, KOREA, TAIWAN,..
Site De Rencontres Avec Des Militaires. Đúc Đồng là gì? Đúc Đồng là nghề thủ công rất lâu đời ở Việt Nam. Ngày xưa, đúc đồng chủ yếu sản xuất những vật dụng trong gia đình như nồi, chảo cho đến khi đất nước tiến bộ hơn thì con người làm sang những sản phẩm tâm linh như đồ thờ bằng đồng, tượng phật, chuông, chiêng. Và đến bây giờ, con người có nhận thức và nhu cầu nên ngành đúc đồng này đang phát triển để phục vụ những nhu cầu đó. Không chỉ riêng nồi, chảo hay đồ thờ, tượng, chuông, chiêng mà còn đúc các loại tượng chân dung, tượng phật cỡ lỡn, đồ thờ được cải tiến hơn rất nhiều, chạm khảm các loại tranh đồng...Để tìm hiểu về các sản phẩm đó xin quý vị xem tại website của chúng tôi hoặc Có thể nói sản phẩm đúc đồng là sản phẩm của một tập thể. Không có người thợ giỏi ở tất cả các khâu thì không thể có sản phẩm đẹp. Yêu cầu trước hết của người thợ là sự kiên trì, cẩn thận, tỉ mỉ và kinh nghiệm trên từng công đoạn. Hàng trăm năm qua khi các ngành nghề khác thay đổi chóng mặt vì sự phát triển của khoa học và công nghệ thì đúc đồng truyền thống vẫn như buổi sơ khai, hầu hết làm thủ công. Sơ lược có bốn công đoạn chính để hoàn thành một sản phẩm. I .QUY TRÌNH ĐÚC MỘT SẢN PHẨM ĐỒNG 1 Tạo mẫu Nghệ nhân tạo mẫu như hình ảnh của sản phẩm mẫu mẫu có thể do khách hàng cung cấp - Dùng đất sét đắp mẫu theo quy định, chỉnh sửa đường nét, ngôn ngữ điêu khắc của thành phẩm trên từng thành phẩm. - Khi đạt được yêu cầu làm khuôn thạch cao âm bản chỉnh sửa đổ ra khuôn thạch cao. - Bản chỉnh sửa đường nét như phác thảo đã được duyệt. 2 Tạo khuôn Công đoạn làm khuônsử dụng khuôn thạch cao để tạo ra khuôn đồng - Dùng đất + chấu + giấy gió để làm khuôn âm bản Khuôn mở hay còn gọi là khuôn 2 nửa - Sau đó dùng đất bùn củ + chấu + bột chịu nhiệt làm cốt bên trong gọi là làm thao - Nung chín khuôn ở nhiệt độ 700 độ C, sau đó để nguội căn chỉnh độ dày mỏng của phần đồng, đạt theo yêu cầu kỹ thuật - Chỉnh sửa khuôn, lau nhẵn, quét sơn chịu nhiệt nung lại 1 lượt nữa ở nhiệt độ 500 độ C, ghép khuôn thành 1 khối 3 Nấu chảy nguyên liệu Nấu đồng ở nhiệt độ 1200 độ C, khi đồng chảy hết pha tỷ lệ Thiếc + Chì + Kẽm theo yêu cầu, chỉnh nhiệt độ là 1250 độ C, nước đồng lỏng đạt theo yêu cầu lúc đó đưa ra và rót vào khuôn * Lưu ý - Không thể nấu đồng ở dạng nguyên chất 100%, nên phải dùng các hợp kim trên để làm giảm nhiệt độ sôi của đồng dễ dàng nấu chảy. + Đồng vàng có tỷ lệ 60% đồng + Thiếc, Chì Kẽm + Đồng đỏ có tỷ lệ 95% đồng + Thiếc, chì, kẽm - Khi pha kim loại vào từng thành phẩm các nghệ nhân phải có kinh nghiệm pha chộn các hỗn hợp kim loại lại với nhau - Ví dụ +Đối với tượng bán thân tỷ lệ cần pha Đồng 92% + Thiếc 5% + Chì 3% +Nhưng đối với tượng ngoài trời thì tỷ lệ Đồng 85% + Thiếc 9% + Chì 3% + Kẽm 2% + Ni Ken 1% - Tuỳ theo từng thành phẩm mà các nghệ nhân pha trộn khác nhau 4 Rót khuôn Nấu và rót hợp kim vào khuôn - Trước khi đúc đồng và các hợp kim nóng chảy vào khuôn phải nung khuôn nóng đều, đủ độ nhiệt cho đồng chảy đều trong khuôn. Đây là khâu khó nhất phải nhờ kinh nghiệm của đôi mắt và khả năng phán đoán của nghệ nhân kinh nghiệm đảm trách 5 Hoàn thiện sản phẩm Công đoạn hoàn thiện sản phẩm - Sau khi khuôn nguội, dỡ khuôn lấy sản phẩm ra mài, giũa, đục, tách, mà rũa theo mẫu và con mắt của nghệ nhân phải đồng sắc - đồng khí mới đạt yêu cầu kỹ thuật, nghệ thuật. Khó đúc nhất là các loại sản phẩm có các thành phần chi tiết nhỏ, tượng chân dung Phật, người phải có thần thái; chuông, khánh đánh lên phải trong trẻo, ngân vang. - Sản phẩm đúc ra sau khi đã đạt tiêu chuẩn về hình dáng, kích thước, họa tiết phải tiến hành khâu làm nguội. Muốn làm được công đoạn này cần phải có dụng cụ riêng như cây khoan, bàn dũa, dao chấn đe... - Khâu quan trọng nhất là trạm, với rất nhiều dụng cụ chuyên dùng, nghệ nhân trạm có thể tạo ra các đường nét như ý đó là các đường "trạm án", "trạm chìm", "trạm đúc nổi" trạm dương bản. - Nghề khảm đồng cũng là một nghề đặc sắc ở - ý yên. Bản chất của công đoạn này là đưa vào bề mặt của sản phẩm những kim loại quý khác như vàng, bạc để tạo giá trị và tính nghệ thuật cao. - Trước tiên các nghệ nhân phải đục trên bề mặt sản phẩm tạo thành hình ảnh âm bản cho các hoạ tiết, thiết kế vừa khớp với những khối âm đã tạo ra từ các kim loại khác, tiếp theo là dát lại và đánh bóng bề mặt. - Thêm chất khí, khi đưa thêm một kim loại khác lên sản phẩm đồng gọi là khảm nhị khí, hai kim loại khác gọi là tam khí. - Đây cũng là một công đoạn được coi là công thức gia truyền của mỗi nghệ nhân. Nhờ đó mà người ta tạo được các màu sắc khác nhau thích hợp cho từng sản phẩm, kể cả các sản phẩm giả cổ có màu sắc hoen gỉ như đã qua hàng nghìn năm. Và đặc biệt là màu được giữ nguyên vẹn cho hàng trăm năm sau. Công Ty TNHH Đồng Mỹ Nghệ BẢO LONG là một trong những doanh nghiệp đúc đồng và chế tác đồ đồng lớn của làng nghề Tống Xá - Ý Yên - Nam Định. Cơ sở sản xuất gồm ba phân xưởng chính cùng nhiều xưởng vệ tinh, Sở hữu một đội ngũ các thợ giỏi và nghệ nhân xuất sắc, kinh nghiệm lâu năm. Chúng tôi đã sản xuất hàng trăm loại sản phẩm bằng đồng với mẫu mã và kích thước đa dạng, phong phú trong đó có các loại đồ thờ cúng, tượng đồng chân dung, tượng đài, tượng phật, tranh đồng, trống đồng, chuông, chiêng và các sản phẩm phong thủy, mỹ nghệ trang trí nội ngoại thất cao cấp, được kiểm soát từ đầu vào nguyên liệu cho đến đầu ra thành phẩm, đảm bảo sản phẩm khi đưa ra thị trường đến tay người dùng phải đạt tiêu chuẩn cả về thẩm mỹ và kỹ thuật…Với tiêu chí xây dựng một thương hiệu Đồ Đồng Cao Cấp, chúng tôi không ngừng học hỏi kinh nghiệm, chiêu mộ các nghệ nhân, thợ giỏi, phân chia và hoàn thiện các công đoạn chế tác, kiểm soát chặt chẽ trên từng khâu của quá trình sản xuất...tuyển trọn nguyên liệu đồng thanh khiết, sưu tầm và thiết kế rất nhiều mẫu mã độc đáo, đẹp mắt, chúng tôi không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu những mặt hàng thông dụng, mà còn tạo ra nhiều sản phẩm đạt đến độ tinh tấn về kỹ thuật, đẳng cấp về thiết kế, đã và đang được nhiều khách hàng tiếp nhận. ⇒ Với những ưu thế vượt trội so với nhiều cơ sở khác chúng tôi luôn khẳng định sẽ đem đến cho quý khách hàng những sản phẩm thực sự chất lượng, đảm bảo những khách hàng khó tính nhất cũng phải hài lòng. Mang trong mình sứ mệnh gìn giữ và phát triển những giá trị của làng nghề truyền thống,Bảo Long mong muốn trở thành biểu tượng, niềm tự hào của giới thượng lưu Việt Nam. Hệ thống showroom Xưởng - Tống Xá - Ý Yên - Nam Định Cửa hàng 1 621 Đê La Thành - Ba Đình - Hà Nội Cửa hàng 2 277 Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội Cửa hàng 3 65 Cộng Hòa - - Bình - Chí Minh HOTLINE
Từ chiều sâu 4000 năm với bao nhiêu biến thiên, nghề đúc đồng cổ truyền Việt Nam, còn để lại một số trung tâm ngày nay vẫn còn hoạt động, trước hết liên quan đến Tổ Nghề. 1. Trung tâm đúc đồng Đề Cầu và Đông Trung tâm đúc đồng Ngũ Trung tâm đúc đồng Quảng Bố và Đại Làng hàn đồng Trang Trung tâm đúc đồng phường Đúc ở Một số làng đúc đồng khác. Nghề đúc đồng ở nước ta được khởi lên từ văn hóa Phùng Nguyên 4000 năm trước. Song cụ Tổ nghề mà các nơi đúc đồng thờ, thực ra không phải là tổ sáng tạo mà chỉ là tổ phục hưng sau 3000 năm đã có nghề. Trở lại nhân vật Khổng Lồ trong truyền thuyết về ông tổ đúc đồng, tùy từng vùng được đồng nhất với một trong hai vị thiền sư có thật ở thời Lý là Dương Không Lộ 1016 – 1094 và Nguyễn Minh Không 1065 – 1141. Dù hai thiền sư sống cách nhau gần nửa thế kỷ, song truyền thuyết đã tái sáng tạo lịch sử, để hai thiền sư trên đã cùng với Từ Đạo Hạnh sang Tây Phương tu luyện, khi đắc đạo rồi trở về nước, mỗi người tu ở một nơi. Từ Đạo Hạnh tu ở chùa Thầy, sau đầu thai làm vua Lý Thần Tông. Nguyễn Minh Không tu ở chùa Keo, sau có công chữa khỏi ác bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được ban quốc tính, và phong là quốc sư, có đền thờ ở phố Lý Quốc Sư Hà Nội. Còn Dương Không Lộ tu ở chùa Phả Lại Bắc Ninh có hai chú tiểu là Phạm Quốc Tài quê ở Đề Cầu còn gọi là Đề Kiều – Thuận Thành – Bắc Ninh và Trần Lạc quê ở Đông Mai còn gọi là làng Nôm hay cầu Nôm – Văn Giang – Hưng Yên nhưng xưa là Bắc Ninh, ngoài việc tu hành còn giỏi đúc đồng. Có thuyết kể chính thiền sư Dương Không Lộ sau khi xin được đồng của Trung Quốc, đã về chùa núi Phả Lại đúc quả chuông khổng lồ, khi đánh thử thì trâu vàng chạy theo, nhưng khi tiếng chuông tắt thì trâu mất hút. Bèn xuống hồ Lãng Bạc đầm, sư bèn đạp chuông rơi xuống sông Lục Đầu. Nơi chuông rơi xuống, về sau vẫn được gọi là Vực Chuông. Khi hai chú tiểu đã thạo nghề, sư phụ cho họ về quê dạy dân làng đúc đồng. Dân Đề Cầu và Đông Mai biết đúc đồng thờ Không Lộ làm tổ sư, và thờ cả hai chú tiểu là Phạm Quốc Tài và Trần Lạc. Từ những thiền sư là con người của lịch sử, nhưng đã huyền thoại hóa, dân gian xây dựng nên truyền thuyết ông Khổng Lồ dạy dân đúc đồng. Nhân vật ông Khổng Lồ chính là sự khái quát một dạng anh hùng văn hóa kỳ vĩ, và truyền thuyết cũng ghi nhận một sự thực là địa danh của hai nơi đúc đồng nổi tiếng Đề Cầu và Đông Mai. Đề Cầu và Đông Mai là hai xã, từ xa xưa đã thuộc hai huyện khác nhau Siêu Loại và Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc hai huyện của hai tỉnh Thuận Thành – Bắc Ninh; Mỹ Văn – Hưng Yên. Nhưng lại sát cạnh nhau, nên sự phân chia chỉ có tính cách hành chính, còn trong sinh hoạt xã hội, kinh tế và tình cảm hoàn toàn hòa nhập, có thể coi là một trung tâm gọi gọn là Đề Cầu. Đề Cầu là một xã lớn, nên ở thời Nguyễn, tên xã trở thành tên tổng, cũng là một xã cổ, nên cả xã có 4 thông đều có tên chữ và tên nôm là Châu Mỹ Mé, Diễn Tiền Điền, Hạ Rí Hạ và Thượng Rí Thượng. Ngày nay, Đề Cầu mang tên mới là Nguyệt Đức thuộc huyện Thuận Thành của Bắc Ninh. Đông Mai là một xã nhỏ, thời Nguyễn thuộc tổng Đại Từ huyện Văn Giang, nhưng trong thời Pháp thuộc tổng Đại Từ nhập vào tỉnh Hưng Yên, nay là làng Cầu Nôm thuộc xã Đại Đồng huyện Mỹ Văn – Hưng Yên. Làng Đông Mai tục gọi là làng Nôm, đầu làng có chợ là nơi trao đổi hàng hóa và phẩm vật mà của Đề Cầu chiếm hàng đầu, nên gọi là chợ Cầu Nôm, tên chợ gọi quen thành tên làng. Câu ca dao “Đồng nát thì về Cầu Nôm” đã nói lên hoạt động chính của dân Cầu Nôm là chuyên mua đồng nát, về nấu lại thành đồng thau bán cho các làng Văn Ó Ó Nghé, Xuân Phao Ó Phèo, Long Thượng Rồng. Cùng xã Đề Cầu đúc ra các vật bằng đồng như chuông, đỉnh, tượng, sanh, nồi, linh,… rồi Cầu Nôm lại mua sản phẩm đúc của các làng trên, để mang bán khắp chợ miền xuôi và miền ngược. Trung tâm đúc đồng Đề Cầu này, vừa sản xuất vừa phân phối, nguyên liệu chủ yếu là tái chế từ đồng nát. Sách Phong Thổ Hà Bắc đời Lê, ghi nhận “Đề Cầu đúc đồng, đúc thành các thứ tiền đồng, đỉnh đồng, sanh đồng, nồi đồng không thiếu thứ gì”. 2. Trung tâm đúc đồng Ngũ Xã. Vào thời Lê, nhân dân 4 thôn của xã Đề Cầu và nhân dân Đông Mai bị nhà nước trưng tập về kinh đô Thăng Long đúc tiền đồng, và những khí vật bằng đồng cần dùng cho triều đình, sau được phép ở lại bán đảo thuộc hồ Trúc Bạch. Lập ra một làng đúc đồng mới gọi là Ngũ Xã Tràng, để nhắc các thế hệ con cháu nhớ về “Trường đúc của nhân dân năm xã” gốc ở Đề Cầu và Đông Mai, cũng rước tổ sư Không Lộ ở quê ra thời trong đền riêng. Ở đây, có đất tốt, dẻo mượt cần cho việc đắp lò, làm khuôn, lại sẵn nước cần dùng trong kỹ thuật đúc. Các thợ đúc Ngũ Xã đã đúc hoàn hảo pho tượng đồng Trấn Vũ nặng 6,600 cân. Sang thế kỷ XVIII, Nguyễn Huy Lượng ở bài Tụng Tây Hồ phú đã xác nhận lò đồng Ngũ Xã để lửa suốt đêm khiến đom đóm phải ghen tức “Lửa đóm ghen năm xã gây lò”. Ở thế kỷ XIX, Ngũ Xã ngoài việc đúc các vật phẩm bằng đồng, còn đúc tiền gia công cho nhà nước. Làng đúc đồng Ngũ Xã đã có sự phân công sản xuất theo các chi, mỗi chi chuyên đúc một vài chủng loại, có năm chi chính về đúc tượng, đúc chuông, đúc đồ thờ, đúc đồ mỹ nghệ, và đúc đồ dân dụng. Tuy nhiên, đúc những vật phẩm lớn thì cần có sự hợp tác của nhiều thợ thuộc các chi khác, thậm chí từ các nơi khác. Chẳng hạn năm 1952, trong khi đúc pho tượng A Di Đà cho chùa làng, đã huy động tới 100 thợ Ngũ Xã, 40 thợ từ quê cũ Bắc Ninh sang, 4 người từ Hải Dương và Sơn Tây tới. Họ đúc đồng, chủ yếu theo sự đặt hàng của dân làng, của nhà nước và cả của tư nhân. Đôi khi còn bán ra nước ngoài như ở thế kỷ XVII, thuyền trưởng người Anh là Brewster đã mua hai quả chuông đồng ở Kẻ Chợ, mỗi quả nặng chừng 500 cân Anh khoảng 250kg nhưng khi đi thuyền đến phố Hiến thì cả hai chuông đều bị giữ lại. 3. Trung tâm đúc đồng Quảng Bố và Đại Bái. Quảng Bố hay Quảng Bá có tên nôm là làng Vó, xưa là một xã nổi tiếng nên tên xã cũng là tên tổng. Còn Đại Bái có tên nôm là làng Bưởi, xưa cũng là một xã, nằm sát hồ ở phía Tây Nam của làng Vó. Hai làng sát liền nhau, cùng chung sinh hoạt và nghề nghiệp, nhưng cho đến thời Pháp thuộc vẫn thuộc hai khu vực hành chính riêng Quảng Bố thuộc tổng Quảng Bố huyện Lang Tài – Bắc Ninh. Nay Quảng Bố là một thôn của xã Quảng Phú cùng với xã Đại Bái đều thuộc huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh. Hai xã đúc đồng này được coi là một trung tâm, và gọi gọn theo thói quen trong vùng là nghề đồng Đại Bái. Xã Đại Bái có 4 thôn, cả 4 thông đều làm nghề gò đồng và đều thờ tổ sư là Nguyễn Công Truyền. Thần phả ở làng ghi nhận, Nguyễn Công Truyền 989 – 1069 người thời Lý từng theo cha vào Thanh Hóa sinh sống, lớn lên vào quân đội từng được phong là Điện Tiền tướng quân. Khi cha mất, ông xin từ quan để đưa mẹ về quê và sáng chế ra nghề gò đồng. Nhưng… sách Bắc Ninh Toàn Tỉnh Địa Dư Chí lại chép Nguyễn Công Truyền người thời Lê Sơ, từng đi theo đoàn sứ bộ sang Trung Quốc, ở bên ấy ông đã quan sát nghề đồng, khi về nước được phong là Phấn Lực tướng công, đã dạy dân không chỉ đúc đồng mà còn gò đồng. Vì thế, dân Đại Bái lập nên phố Hàng Đồng cho đến nay, vẫn còn có nhiều người gò đồ đồng. Ở Đại Bái, đã có sự phân công sản xuất theo từng thôn, mỗi thôn cũ ngoài thờ tổ sư Nguyễn Công Truyền còn thờ thêm một vị hậu tiên sư làm tổ của ngành. Thôn Tây thờ hậu tiên sư ngành đánh mâm là Phạm Ngọc Thạch. Thôn Ngoài thờ hậu tiên sư ngành đánh nồi là Nguyễn Viết Lai và Vũ Tiết Thái. Thôn Xôn thành lập sau, chuyên đánh chậu không thấy nói hậu tiên sư. Đại Bái còn giữ được tờ trát của triều đình Huế, đề ngày mùng 4 tháng 2 năm Đồng Khánh 3 1888 theo đó chúng ta biết hồi Pháp mới chiếm đóng xong Bắc Kỳ, đã đưa đồ đồng Đại Bái đi dự đấu xảo, và dành được bằng khen. Sau đó, theo lệnh của tổng đốc Ninh Thái, thợ cả Nguyễn Văn Thạch đã dẫn 23 thợ bạn người làng Đại Bái, mang theo đầy đủ đồ nghề vào Huế để đúc, gò, chạm đồng trang trí cho các cung điện. Sách Phong Thổ Hà Bắc Đời Lê ghi nhận “Đại Bái có nghề dập thau làm đủ các thứ mâm thau, chậu thau, ấm thau đều rất khéo”. Ở đây, cũng có chợ Bưởi có tiếng trong vùng, nên tên nôm Bưởi còn được gọi đầy đủ là Bưởi Nồi. Ca dao địa phương có câu “Muốn ăn cơm trắng cá trôi. Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh”. Còn Quảng Bố ở bờ nam sông Bái nổi tiếng là một làng khoa cử, có nhiều phong tục đẹp, nhưng nổi tiếng về nghề đúc đồng, ca dao địa phương có câu “Muốn ăn cơm trắng cá ngon. Thì về làng Vó nặn khuôn đúc nồi”. Tuy thế, tổ sư đúc đồng ở đây lại khá chung chung, có tên là Công Nghệ và tên hiệu là Trực Nghệ, hàm ý chỉ người có công trực tiếp dạy nghề đúc cho dân, mất sớm khi 36 tuổi, và chưa có gia đình, giấy cả tên họ để tránh sự tranh giành giữa các tộc hệ. Cũng có người nói ông họ Nguyễn. Truyền rằng, ông từng làm quan trong bộ Công và đã theo học nghề đúc đồng, khi thạo nghề thì xin từ quan về dạy cho dân, mất ngày 23 tháng 8. Sau trở thành ngày giỗ tổ nghề của cả làng Vó, và mọi người vẫn khiêng tiếng Nghệ mà đọc là Vàng. Từ xa xưa ở trung tâm Đại Bái này, đã có sự phối hợp như ở trung tâm Đề Cầu Quảng Bố mua các nguyên liệu, phế liệu đồng về luyện lại cho đồng nhất, đúc thành những phôi đồng, lại có thể cán mỏng thành đồng lá để cho Đại Bái giọt thành những đồ dùng khác nhau. Như vậy, về kỹ thuật Quảng Bố đúc đồng mà sách Phong Thổ Hà Bắc Đời Lê viết là Trú Đồng thì ở Đại Bái lại giọt đồng sách trên viết là Đả Đồng, và ca dao gọi là Đánh Nồi. Về sau, Quảng Bố cũng đúc đồng, đi từ chỗ đúc đồ thờ, đến chỗ đúc cả đồ dùng phục vụ sinh hoạt của nhân dân. Trung tâm đồ đồng Đại Bái nằm cạnh xã Lãng Ngâm, từ thời văn hóa Đông Sơn đã chiếm đỉnh cao của kỹ thuật đúc đồng, mà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật tinh khéo. Phải chăng, trung tâm Đại Bái là sự phát triển trực tiếp kỹ thuật đúc đồng của người Việt cổ ở Lãng Ngâm, thời các vua Hùng? Bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí khi nói đến đồ đồng cả nước, cũng chỉ nhắc đến đồ đồng Đại Bái. 4. Làng hàn đồng Trang Liệt. Ngoài hai trung tâm Đề Cầu và Đại Bái, Bắc Ninh còn có làng Trang Liệt tên nôm là làng Sặt, nay thuộc xã Đồng Quang huyện Từ Sơn làm nghề buôn bán đồng và sửa chữa đơn giản đồ dùng bằng đồng. Nhờ những người buôn đồng ở Sặt, mà đồ đồng Đại Bái được đưa đến khắp các tỉnh trên miền Bắc, họ còn mua hoặc đổi đồ đồng mới lấy đồ đồng cũ. Với kỹ thuật gò, hàn đơn giản, người làng Sặt đã cứu sống những đồ dùng bằng đồng bị thủng, hoặc bị méo. Chính vì hoạt động của những người này, mà tên nôm của làng Trang Liệt được gọi đầy đủ là làng Sặt Đồng. 5. Trung tâm đúc đồng phường Đúc ở Huế. Trên khu đất phía Tây Bắc làng Dương Xuân ở bờ nam sông Hương, từ thời các chúa Nguyễn đã ra đời một công xưởng đúc đồng gọi là Trú Tượng Ty, sau đấy sang thời Nguyễn phát triển thành Phường Đúc. Vùng Huế từ khi trở thành thủ phủ của Đàng Trong và đặc biệt khi trở thành kinh đô nước ta dưới thời Nguyễn, có một yêu cầu lớn là khối lượng đồ sộ về đồ đồng với một chất lượng cao. Trong ký ức của nhiều người dân Huế, các bộ vạc đồng, cửu vị thần công, cửu đỉnh và nhiều đồ dùng khác của triều đình Huế, đều là sản phẩm của những người thợ đúc đồng ở Phường Đúc Huế. Ký ức của nhiều thợ đúc ở đây, cũng nhớ tổ tiên họ từ miền Bắc di chuyển vào theo cuộc Nam Tiến của các chúa Nguyễn, và được bổ sung ở thời Nguyễn bằng chế độ công tượng, có nhiều người hết hạn đã ở lại Huế lập nghiệp. Khi quân Trịnh chiếm được Phú Xuân, Lê Quý Đôn đã ghi nhận tình hình đúc đồng ở đây của các chúa Nguyễn Có Ty thợ đúc các cục, người Kinh Nhơn 30 người, người Bản Bộ 30 người,… Trên cơ sở ấy, về sau này, Phường Đúc có 5 xóm vẫn giữ các tên cổ là Kinh Nhơn, Bản Bộ, Trường Đúc, Giang Đinh, Giang Tiền. Mỗi xóm dù chỉ có mươi nóc nhà ở hai bên dọc theo đường xóm, nhưng vẫn có một ngôi đình riêng quy mô tương đương với mọi ngôi đình làng trong vùng. Phải chăng, mỗi thôn có một nguồn gốc riêng mà việc thờ ở đình riêng, là ảnh xạ của việc thờ nơi quê gốc? Trên số thợ đúc làm việc trong các công xưởng, từ đời Minh Mạng, nhà nước chủ trương phương thức phát triển theo kiểu cha truyền con nối. Sách Đại Nam Thực Lục ghi rõ “Vua Minh Mạng sai Bộ Công xem xét những người thợ đúc, thợ bạc trong Sở Đốc công, hễ ai có con đẻ, em ruột đến tuổi cứ nghề ấy cho vào sổ hạng thợ, không được vào sổ hạng dân, cũng không được đi làm ở các sở ngạch khác. Tổng lý sở tại dám dung túng, giấu diếm sẽ bị tội, quan địa phương không xét ra cũng bị lỗi”. Chính lối đào tạo từ trong gia đình này, các thế hệ thợ nối tiếp nhau giữ được mánh lới nhà nghề, và khi chế độ công tượng không còn hoạt động, thì các lò đúc đồng của từng gia đình cứ thế mà phát triển. Trong ký ức của nhiều người, người ta vẫn truyền tổ tiên xa đã di cư từ các làng đúc đồng ở ngoài Bắc vào. Theo cuốn Nguyễn Tộc Gia Phổ viết năm Tự Đức 8 1857 và sao lại năm Đồng Khánh 2 1887 của họ Nguyễn ở thông Kinh Nhơn, thì thủy tổ là ông Nguyễn Văn Lương nguyên quán ở tổng Đồng Xá, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Con cháu ở đời thứ 2 có ông Nguyễn Văn Đào, được nhiều người nhận là tổ sư nghề đúc đồng, ở đời thứ ba, và thứ tư đều được phong đến tước bá là tước thường dành cho các thợ giỏi, đến đời thứ 5 ở chi 2, có ông Nguyễn Văn Hòa được phong tước Mỹ Đức bá, giữ chức Trú tượng Kinh Nhơn ty cai quan, và ở chi 4 có ông Nguyễn Văn Thúy ngày 10 tháng 1 năm Cảnh Hưng 29 1768 được phong làm Chánh Dinh Xuất Nội Trú Tượng Ty. Bên cạnh đó, lại có những người thợ đúc đồng từ phía Nam ra. Cuốn Nguyễn Văn Tộc Phái của họ Nguyễn Văn ở thôn Thượng 4, xã Thủy Xuân, Huế lại xác nhận thủy tổ là ông Nguyễn Văn Ngạn định cư ở đây từ năm Cảnh Thịnh 2 1794. Nhưng lại nói thêm, ông Ngạn đã theo cha và ông nội về kinh làm việc đến mình được 3 đời, có quê gốc ở làng Phước Kiều, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, dòng họ này đã tham gia vào tổ chức của Phường Đúc. Từ những lò đúc đồng tư nhân của con cháu hai dòng họ Nguyễn trên, Phường Đúc ngày càng phát triển, thu hút thêm các dòng họ khác và hoạt động mãi cho đến tận ngày hôm nay. 6. Một số làng đúc đồng khác. Ở đồng bằng sông Hồng, ngoài những trung tâm đúc đồng nổi tiếng, nay thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Nội, cũng còn một số làng đúc đồng khác như làng An Lộc, thuộc Thái Bình,… Và dọc theo sự phát triển của đất nước về phía Nam, chúng ta luôn gặp những làng đúc đồng nổi tiếng trong vùng. Có thể kể đến như Thanh Hóa là một trung tâm của văn hóa Đông Sơn, giai đoạn thịnh đạt nhất của thời đại đồ đồng và sắt sớm, mà tiêu biểu là các trống đồng Đông Sơn đạt đỉnh cao cả về kỹ thuật đúc và nghệ thuật trang trí. Trống đồng chẳng những đã trở thành biểu tượng của văn minh văn hóa cổ xưa của Việt Nam, mà đã đi vào tín ngưỡng dân tộc với việc thờ Thần Trống Đồng, có tên chữ Hán là Thần Đồng Cổ. Thanh Hóa vốn có đền Đồng Cổ gốc ở Đan Nê, thần từng hiện lên giúp sự nghiệp dựng nước và giữ nước, được nhà Lý rước về Thăng Long lập đền thờ ở phía Nam hồ Tây, để bảo vệ kinh thành, và chứng kiến hội thề hàng năm của các quan lại. Như vậy, hẳn Thanh Hóa phải là một trung tâm đúc đồng nổi tiếng từ rất xa xưa, mà nay vẫn còn một số làng đúc đồng khác Trà Đông, Đại Bái,… Trà Đông có tên nôm là Kẻ Chè, thuộc xã Thiện Trang, huyện Đông Sơn. Nhân dân truyền rằng, có hai ông họ Vũ giỏi nghề đúc đồng. Trong đó, một ông tên Vũ Đạo, đã đi khắp nơi, đến đây thấy đất có thể làm khuôn đúc tốt, đã ở lại lập nghiệp, về sau con cháu nối đời làm nghề đúc. Vì thế, ca dao địa phương có câu “Đất họ Lê, nghề họ Vũ”. Không xa trung tâm trên mấy, là làng Đại Bái thuộc huyện Thiệu Hóa, cũng nổi tiếng đúc đồng. Ký ức của nhiều người cho rằng, tổ tiên của họ có thể là những thợ đúc đồng làng Đại Bái, thuộc Hà Bắc đi vào đây lập làng mới, và vẫn giữ nguyên tên cũ. Cũng có thể có một hướng phát triển ngược lại chăng? Dù sao, hai làng cùng nghề cùng tên ở hai tỉnh xa lạ nhau, có một quan hệ thân thuộc. Từ địa bàn trung chuyển Thanh Hóa, vào Nam có làng đúc đồng Diễn Tháp ở Nghệ An, Thanh Lam ở Hà Tĩnh, rồi Phan Xá và Hoàng Giang ở Quảng Bình, Cam Lộ ở Quảng Trị, Phước Kiên ở Quảng Nam,… Đến năm 1907, thực dân Pháp còn mở ở Biên Hòa một trường Mỹ nghệ đồ gốm và đúc đồng. Như vậy, nghề đúc đồng vừa có bề dày lịch sử từ xa xưa truyền mãi đến ngày nay, vừa có một bề rộng không gian trên cả nước, từ đồng bằng sông Hồng vào tận đồng bằng sông Cửu Long. Trên lộ trình lịch sử ấy, mặc dầu những thành tựu đúc đồng của quá khứ đã đạt trình độ tuyệt hảo, song các nghệ nhân xưa luôn nghĩ đến một sự cải tiến không ngừng. Ở Đại Bái Bắc Ninh còn đôi câu đối ngắn mà thật hàm súc là “Công đại tiên khai. Nghiệp tùy hậu thế”. Tạm dịch Công lớn mở nghề thuộc về người trước, nối nghiệp ra sao lại do các thế hệ đời sau. Như thế, đòi hỏi một sự sáng tạo không ngừng và một ý thức truyền nghề mở rộng. Chu Quang Trứ Xem thêm bài viết Nghề đúc đồng là một nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp Bạn đang xem bài viết Trở lại tổ nghề đúc đồng và những trung tâm đúc đồng Link
Chương II- Nhiệt học lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi Trong việc đúc tượng đồng , có những quá trình chuyển thể nào của đồng ? Trong việc đúc tượng đồng ,có những quá trình chuyển thể nào của đồng Xem chi tiết Trong việc đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể nào của đồng Xem chi tiết Lịnh 14 tháng 4 2016 lúc 1734 Sự nóng chảy là gì ? Trong việc đúc tượng đồng có những quá trình nào chuyển thể của đồng ? Xem chi tiết Cho biết trong qúa trình đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể nào của đồng? Xem chi tiết Huệ Đỗ 17 tháng 4 2016 lúc 946 câu 1 nêu tác dụng của đòn bẩy , mặt phẳng nghiêng . Nêu 1 số ứng dụng của mặt phẳng nghiêngcâu 2 trong việc đúc ra 1 pho tượng đồng có những quá trình chuyển thể nàocâu 3 nêu đặc điểm của sự sôi Xem chi tiết 1, tại sao ko khí nóng lại nhẹ hơn ko khí lạnh??? 2, trong việc đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể nào của đồng ???3, tại sao khi rót nc nóng vào cốc thuỷ tinh dày thì dễ vỡ hơn là rót nước nóng vào cốc thuỷ tinh mỏng ??? __________help ________ Xem chi tiết Trong việc đúc tượng đồng, có những quá trình chuyển thể nào của đồng, khỉ? Xem chi tiết Những quá trình vận chuyển thế nào của đồng được vận dụng trong việc đúc tượng đồng? Xem chi tiết câu 1 một lọ thủy tinh được đậy bằng nút thủy tinh , nút bị kẹt . Hỏi phải mở nút bằng cách nung nóng phần nào của lọ thủy tinh câu 2 tại sao khi đun nước ta ko nên đổ nước thật đầy câu 3 tại sao người ta ko đóng chai nước ngọt thật đầycâu 4 tại sao quả bóng bàn đang bị bẹp khi nhúng vào nước nóng có thể phồng lêncâu 5 tại sao ko khí nóng lại nhẹ hơn ko khí lạnhcâu 6 trong việc đúc tượng đồng , có những quá trình chuển thể nào của đồng hu hu giúp mình làm nha đang cần gấp Đọc tiếp Xem chi tiết
trong việc đúc đồng